Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Monday 29-09-2025 2:29am
Viết bởi: ngoc
Danh mục: Tin quốc tế

ThS.BS Nguyễn Vũ Hà Phúc
Giảng viên Bộ môn phụ sản Đại học Y Dược TP HCM
 

Hiệp hội Đái tháo đường trong thai kỳ Australasia (Australasian Diabetes in Pregnancy Society -ADIPS) vừa công bố đồng thuận năm 2025, cập nhật hướng dẫn sàng lọc, chẩn đoán và phân loại tăng đường huyết trong thai kỳ (HIP – Hyperglycemia in Pregnancy). Đây là lần cập nhật quan trọng đầu tiên kể từ năm 2014, với nhiều thay đổi đáng chú ý, đặc biệt là việc nâng ngưỡng chẩn đoán đái tháo đường thai kỳ (Gestational Diabetes Mellitus - GDM) nhằm giảm tỷ lệ chẩn đoán quá mức và can thiệp không cần thiết. Khuyến nghị mới nâng ngưỡng glucose chẩn đoán cho GDM, dựa trên việc đánh giá rủi ro và bằng chứng từ các thử nghiệm lâm sàng lớn như HAPO, TOBOGM và GEMS.
Những thay đổi chính bao gồm:
Ngưỡng chẩn đoán cao hơn
Tăng đường huyết được phát hiện lần đầu tiên trong thai kỳ nên được phân loại là Overt DIP (Overt Diabetes in Pregnancy – Đái tháo đường rõ ràng trong thai kỳ) hoặc GDM (Gestational Diabetes Mellitus - Đái tháo đường thai kỳ). GDM sớm (Early GDM) là GDM được phát hiện trước tuần thứ 20 của thai kỳ.
Theo hướng dẫn mới, đái tháo đường thai kỳ (GDM) tiếp tục được định nghĩa là tình trạng tăng đường huyết lần đầu tiên được phát hiện trong thai kỳ, nhưng không đủ tiêu chí để chẩn đoán là đái tháo đường rõ ràng trong thai kỳ (Overt DIP).

  • Tiêu chí chẩn đoán GDM (Ngưỡng mới)

Chẩn đoán GDM ở bất kỳ tuổi thai nào nên dựa trên một trong các giá trị sau trong quá trình thực hiện POGTT 75gam (Pregnancy Oral Glucose Tolerance Test - xét nghiệm dung nạp glucose đường uống).

  • Glucose huyết tương lúc đói (FPG) ≥5.3−6.9 mmol/L.

  • Glucose huyết tương 1 giờ ≥10.6 mmol/L.

  • Glucose huyết tương 2 giờ ≥9.0−11.0 mmol/L.

Các ngưỡng này tương ứng với ngưỡng nguy cơ HAPO OR 2.0, cao hơn so với ngưỡng HAPO OR 1.75 của hướng dẫn trước đây, nhằm giảm tỷ lệ chẩn đoán quá mức và các can thiệp không cần thiết. ADIPS kỳ vọng thay đổi này sẽ giảm các chẩn đoán không cần thiết mà không làm ảnh hưởng đến an toàn mẹ và bé.

  • Tiêu chí chẩn đoán Overt DIP

Overt DIP nên được chẩn đoán ở bất kỳ tuổi thai nào nếu đáp ứng một hoặc nhiều tiêu chí sau:

  • Glucose huyết tương lúc đói (FPG) ≥7.0 mmol/L.

  • Glucose huyết tương 2 giờ sau khi thực hiện xét nghiệm dung nạp glucose đường uống (OGTT) ≥11.1 mmol/L.

  • HbA1c ≥6.5% (≥48 mmol/mol).

  • Glucose huyết tương ngẫu nhiên ≥11.1 mmol/L kèm theo các triệu chứng lâm sàng.

Khuyến nghị sàng lọc sớm hơn có chọn lọc
ADIPS cũng khuyến nghị sàng lọc sớm trong tam cá nguyệt đầu tiên cho những phụ nữ có yếu tố nguy cơ như: tiền sử GDM, béo phì, hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS), hoặc tiền sử gia đình mắc đái tháo đường. Các xét nghiệm được khuyến nghị bao gồm HbA1c và nghiệm pháp POGTT sớm (từ tuần 10 đến trước tuần 20).
Với phụ nữ không có yếu tố nguy cơ, xét nghiệm POGTT 75g vẫn nên được thực hiện định kỳ ở tuần 24–28 của thai kỳ.
Nếu phụ nữ không thể thực hiện POGTT, xét nghiệm glucose lúc đói (FPG) có thể được sử dụng thay thế. Tuy nhiên, HbA1c không được khuyến nghị để sàng lọc GDM trong tam cá nguyệt thứ hai hoặc ba do độ nhạy kém. ADIPS khuyến nghị áp dụng cách tiếp cận sàng lọc và chẩn đoán như được tóm tắt trong Sơ đồ.

  • Sàng lọc sớm (cho phụ nữ có yếu tố nguy cơ)

  1. Đánh giá yếu tố nguy cơ: Đánh giá các yếu tố nguy cơ khi khám thai lần đầu (bao gồm tiền sử GDM trước đó, béo phì, tiền sử gia đình mắc đái tháo đường, tuổi tác, PCOS, v.v.).

  2. Xét nghiệm HbA1c sớm: Phụ nữ có yếu tố nguy cơ nên được khuyên đo HbA1c ở tam cá nguyệt thứ nhất (trừ khi đã được đo trong vòng 12 tháng) để xác định Overt DIP.

  3. POGTT sớm: Phụ nữ có tiền sử GDM trước đó hoặc có mức HbA1c 6.0–6.4% (tương đương 42–47 mmol/mol) (nhưng chưa được chẩn đoán đái tháo đường) nên được khuyên thực hiện POGTT 75g hai giờ trước 20 tuần tuổi thai, lý tưởng là từ 10 đến 14 tuần. POGTT không nên được thực hiện trước 10 tuần.

  • Sàng lọc thường quy

Tất cả phụ nữ (chưa phát hiện đái tháo đường trong thai kỳ hiện tại) nên được khuyên thực hiện POGTT 75g hai giờ tại thời điểm 24-28 tuần tuổi thai.

  • Các phương án khi không thực hiện POGTT

Nếu phụ nữ không thể dung nạp hoặc từ chối POGTT, các bác sĩ lâm sàng có thể đề nghị đo FPG.

  • Nếu FPG ≥ 5.3 mmol/L, phụ nữ nên được chẩn đoán và quản lý như mắc GDM.

  • Nếu FPG trong khoảng 4.7 – 5.2 mmol/L tại tuần 24-28, nên được khuyến nghị thực hiện POGTT nếu dung nạp.

  • HbA1c không được khuyến nghị để sàng lọc GDM trong giai đoạn thai kỳ muộn do độ nhạy kém.

Cơ sở khoa học cho các khuyến nghị mới
Quyết định nâng ngưỡng chẩn đoán dựa trên kết quả từ các thử nghiệm lâm sàng gần đây như TOBOGM và GEMS, cho thấy việc điều trị GDM sớm chỉ mang lại lợi ích rõ rệt ở những phụ nữ có mức đường huyết cao hơn (ngưỡng OR 2.0). Việc sử dụng ngưỡng thấp hơn có thể làm tăng gấp đôi tỷ lệ chẩn đoán GDM nhưng không cải thiện kết quả chính và thậm chí có thể làm tăng nguy cơ sinh con nhỏ hơn tuổi thai (SGA).

  • Thử nghiệm TOBOGM (điều trị GDM sớm): Điều trị GDM sớm (trước 20 tuần) làm giảm vừa phải kết cục chu sinh. Phân tích dưới nhóm cho thấy lợi ích quan sát được ở những phụ nữ được chẩn đoán bằng ngưỡng đường huyết cao hơn (HAPO OR 2.0), chứ không phải ngưỡng thấp hơn (HAPO OR 1.75).

  • Thử nghiệm GEMS (so sánh ngưỡng chẩn đoán): Sử dụng tiêu chí IADPSG (ngưỡng thấp hơn) đã làm tăng hơn gấp đôi tỷ lệ GDM (15.3% so với 6.1%) so với hướng dẫn New Zealand trước đó (ngưỡng cao hơn), nhưng không có sự khác biệt về kết cục chính (trẻ sinh ra lớn hơn tuổi thai - LGA). Điều trị ở ngưỡng thấp hơn (IADPSG) liên quan đến việc tăng nguy cơ trẻ sơ sinh nhỏ hơn tuổi thai (SGA) và tăng sử dụng dịch vụ y tế, mặc dù có giảm LGA và tiền sản giật trong một phân tích dưới nhóm.

  • Phân tích FPG: Phân tích lại dữ liệu HAPO cho thấy FPG <4.7 mmol/L ở tuần 24-28 có nguy cơ biến chứng thai kỳ thấp.

Chẩn đoán GDM có thể ảnh hưởng đáng kể đến sức khỏe tâm lý của phụ nữ, gây ra sự kỳ thị (tội lỗi, xấu hổ, sợ hãi, lo lắng) và gánh nặng chăm sóc. Tuyên bố cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chăm sóc lấy phụ nữ làm trung tâm và giải quyết những vấn đề như sự kỳ thị xã hội và gánh nặng tâm lý mà phụ nữ phải đối mặt khi được chẩn đoán GDM.
ADIPS cũng kêu gọi: cần có thêm các thử nghiệm với thời gian theo dõi dài hạn để xác nhận lợi ích của việc điều trị GDM sớm và xác định ngưỡng chẩn đoán tối ưu. Cần nghiên cứu thêm để đơn giản hóa các phương pháp sàng lọc và tìm ra một xét nghiệm dễ chấp nhận và có khả năng tái lập cao hơn POGTT 75g hai giờ.
 
Tài liệu lược dịch:
Arianne Sweeting, Matthew JL Hare, Susan J de Jersey, etc. Australasian Diabetes in Pregnancy Society (ADIPS) 2025 consensus recommendations for the screening, diagnosis and classification of gestational diabetes. The Medical Journal of Australia (MJA). Volume 22 Issue 33 August 2025: 111-169.


Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Hội Nội tiết Sinh sản và Vô sinh TP. Hồ Chí Minh (HOSREM) sẽ ...

Năm 2020

Khách sạn Equatorial, chủ nhật ngày 23 . 11 . 2025

Năm 2020

Ngày 9 - 10 . 8 . 2025, Vinpearl Landmark 81 (Số 720A Điện BIên Phủ, ...

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản được phát ngày ngày 21 . 9 . 2025 và gởi đến ...

Cẩm nang Hội chứng buồng trứng đa nang được phát hành online ...

Mời quý đồng nghiệp đón đọc bản Online của Y học sinh sản ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK